Nguyễn Du (
chữ Hán: 阮攸;
1765–
1820)
[1]là một
nhà
thơ kiệt xuất của
Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là
Truyện Kiều (
Đoạn trường tân thanh) đã đưa
ông lên hàng
Danh nhân văn hóa thế giới.
Nguyễn Du
tên tự là
Tố Như (素如),
tên
hiệu là
Thanh Hiên, biệt hiệu là
Hồng Sơn lạp hộ.
//
[sửa] Cuộc
đờiÔng quê làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân,
tỉnh
Hà
Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời thơ ấu ở
Thăng
Long. Ông thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt: cha là Xuân Quận Công
Nguyễn Nghiễm làm tới
tể tướng dưới
triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn
Nghiễm, người xứ
Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 người
con). Anh khác mẹ (con bà chính) của ông là Toản Quận Công
Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái
Bảo trong triều.
Năm 1771, ông cùng gia đình Tể tướng Nguyễn Nghiễm chuyển về ở làng
Tiên Điền. Do là con thứ bảy nên Nguyễn Du còn được gọi
là cậu Chiêu Bảy.
Năm 1775, lúc 10 tuổi Nguyễn Du mồ côi cha.
Năm 1778, lúc mười ba tuổi mồ côi mẹ, ông phải ra Thăng Long ở với anh cả là
Nguyễn Khản. Được vài năm, Nguyễn Du
trở về làng
Tiên Điền ở với người chú là Tiến sĩ
Nguyễn Hành.
Năm
1783, Nguyễn Du
thi
hương tại trường thi
Nghệ An và đậu
Tam trường. Vì lẽ gì không rõ, ông
không tiếp tục thi lên nữa, mà đi nhận một chức quan võ ở
Thái Nguyễn, kế chân người cha nuôi
của ông vừa mới từ trần.
Năm
1789,
Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân
nhà Thanh.
Nguyễn Du, vì tư tưởng trung quân phong kiến, không chịu ra làm quan cho
nhà Tây Sơn.
Từ năm 1789 đến năm 1795, ông sống ở
Thái
Bình- quê vợ.
Năm
1796: Nguyễn Du dự định vào
Gia
Định cộng tác với
Chúa
Nguyễn, âm mưu bị bại lộ, bị nhà Tây Sơn bắt giam ba tháng.
Có thể Nguyễn Du đã thai nghén Truyện Kiều vào thời gian này; năm đó Nguyễn Du đúng 30
tuổi ("Trải qua một cuộc bể dâu" - một bể dâu bằng khoảng 30 năm [2]).Nhưng theo Giáo sư Nguyễn Lộc
("Từ điển Văn học" tập II - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1984) trang
455 viết: "Đoạn trường tân thanh(đoạn trường: đứt ruột;
tân thanh: tiếng mới). là một truyện thơ Nôm viết bằng thể
lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung
Quốc. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc
(1814-20). Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian
làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-09). Thuyết sau này được nhiều người chấp
nhận"[3].
Chi tiết xem thêm bài Truyện KiềuTừ 1797 đến năm 1804: Nguyễn Du ẩn dật tại
Tiên Điền.
Khi
Nguyễn Phúc Ánh lật đổ nhà Tây Sơn
Nguyễn Quang Toản, rồi mời Nguyễn Du ra làm quan;
ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh.
Năm Gia Long nguyên niên (1802),ông làm tri huyện
huyện Phù Dực (nay thuộc Tỉnh
Thái
Bình), rồi được ít lâu thăng tri phủ Thường Tín (Hà Đông).
Năm thứ tám (1809),ông làm cai bạ tỉnh Quảng Bình.
Năm
1805, ông bắt đầu vào Huế làm quan với nhà
Nguyễn và được thăng Đông Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm
1813, thăng Cần Chánh điện học sĩ, được cử
làm Chánh Sứ đi
Trung Quốc. Sau khi về nước, năm
1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri.
Theo
Đại Nam Liệt Truyện:
"Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung
kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng
gì..."
Năm
1820,
Minh
Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông đột
ngột qua đời.
Đại Nam
Liệt Truyện viết: "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo
người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi
mất; không trối lại điều gì."
ại thi hào Nguyễn Du sinh ngày 23-11 năm ất Dậu (3-1-1766), mất
1820, tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên (có tài liệu nói Trai Hiên) quê nội ở Tiên
Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Quê ngoại ở vùng Kinh Bắc văn vật, chỉ cách trung tâm
Hà Nội khoảng 13 cây số đường chim bay. Đó là làng Kim Thiều, xã Hương Mặc,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Đây cũng là nơi Nguyễn Du sống những năm
tháng thơ ấu. Vùng đất văn vật này có ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc đời thơ văn
của Nguyễn Du.
Đến với làng Kim Thiều,
chúng tôi như được trở về với một không khí của ký ức Nguyễn Du vốn vẫn là cái
nhịp điệu lách cách gần chục thế kỷ của một làng nghề sản xuất đồ gỗ chạm khắc.
Chúng tôi đến được nhà thờ họ Trần để dự buổi giỗ Tổ. Trong tộc phả, có ông
Trần Phi Nhỡn từng là thượng thư bộ Hộ, với tước hiệu Đông các Điện học sĩ,
Nhập thị Kinh Điện (vào cung dạy vua). Đó là tổ ngoại của đại thi hào Nguyễn
Du.
Gặp các gương mặt trai
đinh họ Trần và các cụ cao tuổi, các thợ chạm gỗ lành nghề, các vị lãnh đạo xã,
những người đang làm việc trong nhiều cơ quan, cơ sở sản xuất, là dân địa
phương này, đều thể hiện chung vẻ tôn ti của một trật tự dòng họ. Lễ dâng hương
được tiến hành, sau đó là những câu chuyện của các lớp hậu duệ họ Trần tự hào
với tổ tiên và đại thi hào Nguyễn Du. Đứng trước hiên nhà thờ, các cụ cao tuổi
chỉ ra cánh đồng và nói một điều đáng suy nghĩ: "Không biết đương thời cụ
Nguyễn Du nhà chúng tôi đã được nhân dân cảm mến tài năng chưa, nhưng trước
minh đường nhà thờ họ Trần còn lưu lại một cánh đồng thẳng cánh cò bay có tên
là "Cánh đồng Hiên", chúng tôi luôn chạnh lòng nhớ đến Thanh Hiên.
Biết đâu cái thái ấp của người cha là tể tướng Nguyễn Nghiễm đã có ý đó để lại
cho con là Nguyễn Du một ý thức tự lập cho tên hiệu Thanh Hiên ví với "mầu
xanh trước hiên nhà quê ngoại" của mình như một ký ức ở quê hương thứ hai
này".
Làng Kim Thiều, quê mẹ
Nguyễn Du có tên chữ là Hoa Thiều, tên Nôm là làng Mấc, thuộc xã Ông Mặc, trấn
Kinh Bắc xưa. Quê ngoại đã cho Nguyễn Du cùng các anh em của ông cái danh giá
thứ hai (sau danh giá gia đình đại quý tộc), đó là niềm tự hào của một vùng quê
làng nghề chạm khắc gỗ vừa có lắm nghệ nhân, vừa có nhiều danh sĩ khoa bảng nối
đời phụng sự quốc gia; toàn xã có 22 tiến sĩ kể từ thời nhà Trần đến thời nhà
Nguyễn (Danh công truyện ký). Thời nay, số giáo sư, tiến sĩ trong các lĩnh vực
cũng gần gấp đôi con số đó. Tại xã có 11 di tích được Nhà nước và tỉnh xếp hạng
thì chín di tích thuộc về các dòng họ như Đàm (Đàm Thận Huy), Nguyễn (Nguyễn
Giản Thanh), Đỗ (Đỗ Đại Uyên), Nguyễn Hữu (Mai Động, Trần (Trần Ngạn Húc)...
trong đó dòng họ Trần đã có duyên gá kết phu thê cho người con gái là Trần Thị
Tần (có sách nói Trần Thị Thấn), của họ mình với quan tể tướng Nguyễn Nghiễm
(triều Lê). Ngay tại làng Kim Thiều, truyền tích vẫn nói tể tướng Nguyễn Nghiễm
lấy bà Trần Thị Tần là trắc thất (vợ ba), bà Tần thuộc hệ thứ 11 theo bản phả
họ Trần ở Hoa Thiều và bản phả của họ Nguyễn ở Tiên Điền thì tể tướng Nguyễn
Nghiễm có vợ cả, vợ hai là hai chị em ruột gái họ Đặng: Đặng Thị Dương và Đặng
Thị Thuyết. Nguyễn Nghiễm có 8 vợ và 21 người con.
Nhiều bộ phả của các dòng
họ làng Hoa Thiều và toàn xã Ông Mặc có nói về gái vùng này thường được kén vào
cung làm phi, thiếp. Quan tể tướng Nguyễn Nghiễm kết duyên với Trần Thị Tần và
từ đây anh chị em của Nguyễn Du ra đời với thứ tự Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ, Nguyễn
Thị Diên, Nguyễn Du và Nguyễn ức. Chuyện cũ còn chép: Gia đình Nguyễn Du sống ở
phường Bích Câu, Thăng Long và thường về quê ngoại. Nguyễn Du sinh ra tại làng
Kim Thiều, 6 tuổi mới về Thăng Long.
Thân phụ tạ thế lúc Nguyễn
Du mới 10 tuổi, hai năm sau vì sầu thương, mẹ của Nguyễn Du cũng qua đời. Anh
em Nguyễn Du rơi vào cảnh mồ côi, bần hàn. Có ý kiến nói Nguyễn Du ở quê ngoại,
đã phải đi đục gỗ, ghép tranh...
Nguyễn Du đỗ tam trường
lúc 19 tuổi, được bổ làm chánh thư hiệu ở Thái Nguyên, năm 1784. Một năm sau
thì về quê vợ ở Thái Bình. Quá 30 tuổi Nguyễn Du mới ra làm tri huyện ở tỉnh
Thái Bình, rồi thăng tri phủ Thường Tín (tỉnh Hà Đông), sau được giữ chức Đông
tri viện học sĩ, được bổ Cai bạ Quảng Bình (1802- 1812), năm 1813 được phong
Cần Chánh điện học sĩ, được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Cuộc đi sứ này đã
giúp ông thu thập nhiều tài liệu để sáng tác, trong đó có Bắc hành tạp lục, Nam
Trung tạp ngâm... Ông có nhiều công trình nghiên cứu và sáng tác, nhưng
"Truyện Kiều" sáng giá hơn cả. Năm 1820, khi ông chuẩn bị đi sứ Trung
Quốc thì mắc bệnh đại dịch, mất đột ngột ở tuổi 55.
kỷ lục thế giới của truyện kiều